Chào mừng bạn đến với Gia Đình Duy Duy - Chúc bạn vui vẻ và hạnh phúc !

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Nghe audio truyện: "Chung Vô Diệm" - dã sử Trung Quốc



Tác phẩm : Chung Vô Diệm
Tác giả: Tô Chẩn
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Lĩnh vực: Văn học dã sử Trung Quốc
Người đọc : Trái Táo


Chung Vô Diệm tên thật là Chung Ly Xuân, người đất Vô Diệm (nay thuộc phía đông huyện Đông Bình tỉnh Sơn Đông). Thường gọi là Chung Ly Vô Diệm, bà là Vương hậu của Tuyên Vương Điền Tịch Cương nước Tề.

Tuyên Vương là ông vua nổi tiếng phong dâm. Trong Cung Oán Ngâm Khúc ta có câu: "Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn, bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng". Tề Tuyên Vương có nhiều cá tính lạ: háo dâm, háo tửu, ham săn bắn, thích văn chương triết học ... nhưng không nhìn thời cuộc bằng con mắt hiện thực. Cũng may, vua trước là Tề Uy Vương đã tạo nên một nền thịnh vượng cho nước Tề, nhờ thế mà thời Tề Tuyên Vương không có gì sa sút lắm. Nhưng các nước chung quanh: Tần, Sở, Ngụy, Triệu đều phát triển còn Tề thì dậm chân tại chỗ.

Đọc sử ta biết, xứ Chung Ly có nhiều bậc anh tài (ví dụ: Tướng Chung Ly Muội của Sở Hạng Vũ cũng là một tay cự phách của thời Tần Hán), nên nàng Chung Ly Vô Diệm có lẽ được hưởng anh linh tú khí ở nơi đó, nên khi đã nhận thức được thời cuộc rất chính xác. Người xưa nói: "Tính nết thay cho nhan sắc". Chung Ly Vô Diệm thông minh và gan dạ, và lời biện thuyết hùng hồn của nàng đã lấn át được lời tranh luận, dẹp được những buổi triều yến phù phiếm, tháo gỡ những cung đàn ủy mị, Chung Ly Vô Diệm vào cung đã đưa hai triều đình Tề Tuyên Vương và Mãn Vương đến chỗ toàn thịnh.

Chung ly Vô Diệm là nữ thuyết khách đầu tiên của Trung Hoa, và cũng là một nữ chính trị gia đầu tiên có nhiều viễn kiến vào tư tưởng chế ngự Tần. Chung Ly Vô Diệm để lại cho lịch sử rất nhiều huyền thoại lẫn giai thoại. Nghe đâu sau này bà "cởi lốt" ở cầu Trường Hà trở thành một giai nhân thiên kiều bá mỵ.

Sau đây xin giới thiệu một giai thoại giữa Chung Vô Diệm và Tề Tuyên Vương :

Tề Tuyên Vương (đầu thế kỷ 3 trước Công Nguyên) là một ông vua nổi tiếng "Túng dâm", mê tên nịnh thần Vương Hoàn, ham rượu, chơi ngông, cho xây Tuyết Cung, mở vườn liệp uyển (vườn săn). Ngoài ra vua còn tín nhiệm nhóm Tắc Hạ. Nhóm này quy tụ các triết gia, văn gia, chính trị gia, chuyên đàm thiên thuyết địa, không có gì thực tiễn. 76 thành viên Tắc Hạ đều được ăn lương Đại phu nhưng không giúp việc triều đình.

Hôm nọ, Tề Tuyên Vương mở đại yến ở với bầy mỹ nữ mỹ miều có các quan tham dự. Bấy giờ ngoài ngọ môn có một người đàn bà trán rộng mắt sâu, hầu lộ, mũi cao, răng lồi cổ bạnh, xông thẳng vào triều. Lính ngọ môn thấy người cổ quái như vậy chặn bà ta lại. Bà ấy nói:

- Ta ở huyện Vô Diệm, họ Chung Ly tên là Xuân, tuổi gần 40 còn kén chồng. Nghe đại vương mở yến ở Tuyết cung, ta đến yết kiến, xin vào hậu cung quét dọn.

Bọn lính bưng miệng cười, vào tâu với Tuyên Vương. Vua cho vào. Bá quan thấy mụ xấu quá chừng đều ôm bụng cười.

Tuyên Vương nói:

- Phi tần trong cung quá nhiều, người nào cũng đẹp, mụ thì xấu quá. Chốn hương đảng chẳng ai hỏi tới mụ. Giờ mụ đến đây xin xỏ ta điều gì? Hoặc mụ có tài gì lạ không?

Chung Ly Xuân (Chung Ly Vô Diệm) liền trợn mắt hếch răng, vỗ vào gối bình bịch nói:

- Nguy lắm! Nguy lắm! ... thiếp trợn mắt là thay vua nhìn vào cái nạn binh lửa; hếch răng thay vua trị tội những kẻ chống lại lời can gián; cất tay thay vua đổi kẻ sàm nịnh; vỗ gối thay vua đạp phá yến này!

Tuyên Vương nổi giận mắng:

- Quả nhân làm sao có bốn điều ấy? Mụ nhà quê dám nói càn. Hãy lôi cổ ra ngoài.

Chung Ly Vô Diệm nói:

- Khoan! Để thiếp kể bốn tội đó của đại vương rồi sẽ chịu chết. Thiếp nghe: Vệ Ưởng nước Tần dùng biến pháp canh tân nước Tần thành một cường quốc, không bao lâu họ sẽ đánh ra ải Hàm Cốc, cùng với Tề quyết đề kháng. Tất nhiên Tề không cự lại Tần. Nay, đại vương trong triều không có lương tướng, ngoài biên thiếu canh phòng. Thần thiếp trừng mắt thấy đại vương thế đó!

Đại vương tham rượu, đắm sắc, bao nhiêu trang quốc sắc đại vương bắt đem về, bỏ bê triều chính. Người trung nghĩa, bậc trí thức can gián, đại vương không hề nghe. Thần thiếp hếch răng nói với đại vương những lời đó.

Bọn Vương Hoàn ưa dua nịnh, đám tắc Hạ khoa ngôn, đại vương tin bọn ấy, lương phạn cứ cấp đủ cho chúng, nhưng nước Tề ta chẳng nhận được gì. Bệ hạ bị chúng mê hoặc, xã tắc sắp đảo điên, nên thần thiếp mới thay đại vương đuổi bọn chúng!

Đại vương xây Tuyết Cung, mở Liệp Uyển làm dân cùng nước kiệt, thiếp vỗ vào gối thay đại vương phá bỏ những thứ ấy đi! Hết lời! Đại vương giết đi!

Tề Tuyên Vương bàng hoàng than:

- Nếu không có lời Chung Ly nữ, ta không bao giờ thấy được những lỗi này.

Tuyên Vương lập tức dẹp bỏ hết yến tiệc, đem Chung Ly Vô Diệm về cung phong làm chánh hậu. Đuổi tên Vương Hoàn, giải tán nhóm Tắc hạ ...

Nước Tề từ đó cường thịnh.

Mời các bạn xem truyện "Chung Vô Diệm" tại đây

Mời các bạn nghe audio truyện "Chung Vô Diệm" theo YouTube tại đây:



Mời các bạn xem bộ phim này tại đây , xem theo Playlist YouTube tại đây

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Phúc Âm Lễ Chúa Nhật thứ XXX Mùa Thường Niên (năm B) ngày 28/10/2012



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ XXX Mùa Thường Niên (năm B)

Nguồn:www.40giayloichua.net

Mời nghe Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật 30 MTN (B)do Đức Cha Phê Rô Nguyễn Văn Khảm thuyết giảng năm 1997

CHÚA CHO NGƯỜI MÙ ĐƯỢC THẤY
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. Sáng đôi mắt đức tin

Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nổi với một bình điện đeo ở thắt lưng.

Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.

Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Ðây là tình trạng của những người mù". Tất cả sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.

*

"Có đau mắt mới biết thương người mù". Các sinh viên trong câu chuyện trên đây đã cảm nghiệm trong giây lát nỗi khổ của người mù. Họ không chỉ khổ nơi thân xác mà còn khổ trong tâm hồn. Quả thật, người mù đã không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn ngắm người thân bạn bè, mà còn bị mặc cảm lệ thuộc kẻ khác, sống bên lề xã hội.

Hôm nay Ðức Giêsu chữa người hành khất mù Báctimê. Anh mù loà, "ngồi bên vệ đường" ăn xin, nghe biết Ðức Giêsu đi qua, anh thống thiết kêu van: "Hỡi ông Giêsu, con vua Ðavít, xin thương xót con" (Mc.10,47). Người ta ngăn cấm anh, nhưng anh càng tin tưởng kêu to hơn: "Hỡi con vua Ðavít, xin thương xót con". Người cho gọi anh, anh sung sướng, liệng áo choàng, đứng phắt dậy, đến cùng Người: "Lạy Thầy, xin cho con được sáng" (Mc.10,51). Tức thì anh ta thấy được.

Và khuôn mặt đầu tiên anh nhìn thấy chính là Ðức Giêsu, Ðấng đã đến để thắp sáng đời anh. Người phán: "Ðức tin của anh đã chữa anh" (Mc.10,52).

Ðích thực, Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt Ðức tin, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là Ðấng Cứu Thế khi gọi Người là "con vua Ðavít".

Báctimê đã mù đôi mắt thể xác, nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, vì anh đã thấy Ðức Giêsu là người có quyền chữa anh khỏi bệnh mù loà.

Với đôi mắt đức tin, anh đã chẳng sợ người ta cấm cản. Càng đe dọa, anh càng lớn tiếng kêu xin thống thiết hơn.

Với đôi mắt đức tin, anh đã liệng bỏ áo choàng là phương tiện để nhận quà tặng, cởi bỏ đời sống ăn xin, từ bỏ thân phận mù loà, rũ bỏ đời sống tối tăm, đến miền ánh sáng tình yêu và sự sống.

"Lạy Thầy, xin cho con được thấy". Ðó phải là lời cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Vì sẽ có những lúc chúng ta không thấy, hoặc cố ý không muốn thấy. Có những lúc chúng ta thấy mặt này mà chẳng thấy mặt kia. Mù loà thể xác ai cũng biết, nhưng mù loà tâm hồn thì không dễ nhận ra. Nên chúng ta hãy xin Chúa xóa cảnh mù loà cho mình. Vì chỉ "trong ánh sáng của Chúa, chúng ta mới nhìn thấy ánh sáng".

*

Lạy Chúa,
Xin cho mắt tâm hồn chúng con được sáng, để chúng con thấy Chúa là tất cả, thấy anh em thật dễ mến dễ thương, và thấy mình càng nhỏ bé đi, trong bàn tay yêu thương của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 2. Thị giác và thị lực

Cần phải phân biệt thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy: nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ v.v. Người cận thị chỉ thấy được rất gần; người viễn thị thì thấy xa hơn. Thí dụ này giúp ta hiểu rằng chỉ có thị giác thôi thì chưa đủ, mà còn phải có thị lực tốt.

Hiểu rộng hơn một chút, thị lực không phải chỉ là mức độ thấy của đôi mắt, mà còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác.

Ðức Giêsu là người có thị lực rất tốt: Ngài thấy Natanael đang ngồi dưới gốc cây vả trước khi ông tìm đến với Ngài; Ngài thấy tấm lòng của một bà goá dâng hai xu trong thùng tiền đền thờ; Ngài thấy cõi lòng tan nát của người phụ nữ ngoại tình bị lôi đến sân đền thờ để chịu xét xử v.v.

Anh chàng Bartimê trong bài Tin Mừng hôm nay tuy mù nhưng cũng có thị lực tốt vì anh đã thấy được Ðức Giêsu là Ðấng Messia "Con Vua Ðavít".

Không phải chúng ta có đôi mắt tốt thì đương nhiên chúng ta có thị lực tốt đâu. Vậy chúng ta hãy xin với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy xin cho con được thấy".

* 3. Ðứng trước một người tàn tật


Ðoạn Tin Mừng của Thánh Marcô kể chuyện Chúa Giêsu cứu chữa một người mù có thể gợi lên vài suy nghĩ:

1. Ở đời chúng ta thấy có nhiều người tàn tật: có người thì mù, có người thì què, có người thì câm, có người thì rối loạn thần kinh... Trong số họ, có những kẻ bị tàn tật vì do một tai nạn, nhưng cũng có rất nhiều người bị tàn tật như thế ngay từ lúc mới sinh.

Ðứng trước những người tàn tật ấy, người ta có thể có nhiều thái độ khác nhau: trẻ con thì vô tâm đến tàn nhẫn và chọc ghẹo những người đó "1,2,3 thằng cha bán kẹo què giò, còn một giò đi kéo xe lôi"; những kẻ có lòng hơn thì không nở chọc ghẹo nhưng ngậm ngùi tội nghiệp thông cảm; người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ xót thương: năm 1962, tại thành phố Liège nước Bỉ có một bà mẹ sinh ra một đứa con hình dáng không ra con người mà là giống như một con vật. Bà đau đớn quá và giết chết đứa con ấy đi. Người ta đem bà ra toà vì tội giết con. Nhưng toà án tha bổng vì thông cảm với nỗi đau khổ của bà và nỗi đau khổ của đứa con ấy nếu nó sống và phải gánh chịu.

Nhưng ngoài những thái độ chọc ghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người tín hữu chúng ta còn có thể có suy nghĩ nào hơn nữa không? Thưa có, đó là suy nghĩ về cuộc đời và những bất công của cuộc đời. Cuộc đời này quả thực có nhiều bất công: có người sinh ra thì mạnh khoẻ xinh đẹp, có người sinh ra thì tàn tật xấu xí. Có kẻ sinh ra đã nằm sẵn trong một gia đình giàu có, địa vị; còn có kẻ sinh ra nhằm một gia đình cơ cực túng thiếu. Một người vừa mới sinh ra đã mạnh khoẻ, thông minh và thuộc một gia đình giàu có thì hầu như sẽ rất dễ thành công trong đời; còn một người sinh ra mà tàn tật, ngu đần lại nghèo khổ nữa thì rất khó mà ngóc đầu lên được trong xã hội. Thử hỏi những kẻ xấu số đó bản thân của họ có làm gì nên tội mà phải gánh chịu những thiệt thòi như vậy? Họ không có tội nhưng họ phải chịu thiệt thòi, đó là một sự bất công.

Mà bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Nhưng có những trường hợp không thể sửa lại cho công bằng được. Chẳng hạn trường hợp cái quái thai do bà mẹ người Bỉ kia sinh ra, người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Bà mẹ ấy đã giết nó chết đi, như thế có phải là công bằng không? chắc chắn là không. Còn nếu không giết chết nó thì phải nuôi sống nó, nuôi thật chu đáo, đầy đủ, cưng chiều nó đủ thứ, nhưng như thế có phải là công bằng chưa? Cũng chưa vì chăm sóc chiều chuộng bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là xoa dịu phần nào những đau khổ của nó mà thôi, chứ không thể nào bù đắp được những thiệt thòi cho nó bằng một người bình thường không tàn tật. Bất công cũng vẫn còn là bất công thôi.

Nhưng chính những cái bất công ở đời này và sự bất lực không tạo được sự công bằng ở đời này đã giúp cho chúng ta tin rằng phải có một thế giới công bằng ở đời sau. Bởi vì nếu tất cả đều kết thúc ở đời này thì thật là chua xót quá đối với những kẻ xấu số tàn tật, thà họ không được sinh ra còn hơn. Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng nên họ không thể nào tàn nhẫn quá đến nỗi tạo ra họ chỉ là để cho họ chịu khổ đau. Vì thế mà chắc chắn phải có một cõi đời sau, khi đó mọi bất công sẽ không còn, những thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng, và công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.

Ðó là ý nghĩa của những lời cầu nguyện đầy tin tưởng mà những kẻ xấu số đã kêu lên trong thánh vịnh 125: "Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền Nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan". Mà cũng là ý nghĩa lời hứa hẹn ngầm của Chúa Giêsu khi ra tay cứu chữa anh Bartimê khỏi bị mù trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là điều mà tiên tri Giêrêmia tiên báo trong bài thánh thư hôm nay "Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dân dẫn dắt những kẻ đui mù què quặt..."

Tóm lại, những cảnh bất công ở đời vừa làm cho lòng ta thương cảm, mà cũng vừa giúp chúng ta tin chắc rằng phải có một cõi đời sau, công bằng hơn, hoàn hảo hơn và hạnh phúc hơn. Ở đời này có một số bất công mà con người không thể nào bù đắp cho công bằng được, như tàn tật chẳng hạn.

Nhưng chính các bất công không bù đắp được mấy khiến loài người mơ tối một cõi đời khác sẽ không còn bất công.

Và qua phép lạ cứu chữa một người mù, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền năng TC có thể tạo ra một cõi đời như thế.

Như vậy phép lạ này là một bằng chứng về cõi đời sau. Ðó là niềm tin của người Công giáo chúng ta.

* 4. Tâm sự của một người mù

Helen Keller bị mù và điếc từ lúc mới 19 tháng tuổi. Cô tâm sự như sau:

Một hôm, một người bạn của tôi vừa đi dạo trong rừng trở về. Tôi hỏi xem cô ấy đã thấy những gì. Cô bạn đáp: "Chẳng có gì đặc biệt cả".

Tôi rất ngạc nhiên và tự nhủ "Không thể nào như thế được". Bản thân tôi đây, vừa mù vừa điếc, thế mà chỉ với đôi tay sờ soạng, tôi vẫn cảm nhận được hàng trăm điều thích thú quanh tôi. Tôi cảm thấy được hình dáng dễ thương và sự mềm mại của chiếc lá. Chỉ cần đặt bàn tay lên cành cây nhỏ đang rung rinh là tôi cảm nhận được tiếng hót líu lo của con chim nhỏ đang đậu trên đó.

Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có mắt nhưng không nhìn thấy.


*

Người mù ăn xin đã cảm nghiệm tất cả mỗi khốn cùng của mình, nên khi gặp Ðức Giêsu, anh đã van nài Chúa thương xót. Chúng ta hãy van nài xin Chúa thương xót chúng ta:

1. Xin cho mọi người trong Hội thánh luôn trở thành ánh sáng đem lại hy vọng / cho những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc và thất vọng.

2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết lo lắng cho những người mù lòa bệnh tật / để giúp họ được chữa lành / hoặc được sống trong niềm vui và hạnh phúc.

3. Xin cho những người bị đui mù cả phần xác lẫn phần hồn / được có dịp gặp gỡ Ðức Giêsu / và được Ðức Giêsu thương chữa lành.

4. Xin cho anh chị em giáo hữu trong xứ đạo chúng ta luôn ý thức rằng / bệnh đui mù phần hồn còn tai hại hơn đui mù phần xác / để luôn nài xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi căn bệnh tai hại ấy.

Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn yếu kém và nhiều khi còn mù quáng, chúng con nài xin Chúa thương ban thêm đức tin, để chúng con trở nên đèn sáng dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Amen!

Thánh Ca : Con Vẫn Trông Cậy Chúa ;



LẬY CHÚA XIN THƯƠNG XÓT CON
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch

Như tôi đã nhiều lần nói với anh chị em trước đây là có nhiều cách cầu nguyện - cầu nguyện lớn tiếng, cầu nguyện thầm lặng trong tâm trí, và một trong các khía cạnh của cầu nguyện trong tâm trí là suy ngắm. Một cách thức trong cầu nguyện suy ngắm là dùng một trường hợp thuộc về Chúa Giêsu trong Tin Mừng hay đời sống của một vị thánh, đọc, suy nghĩ về những gì đã xảy ra và áp dụng vào đời sống của anh chị em. Bài Tin Mừng hôm nay là một thí dụ hay để suy ngắm.

Cái Điếc Trần Tục

Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, anh chị em phải trở lại những bài Tin Mừng của mấy Chúa Nhật trước. Bài Tin Mừng theo Thánh Sử Ma-cô kể rằng khi Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi lên núi với Chúa Giê-su và Chúa Giê-su đã biến hình trước mặt họ. Phê-rô đã qúa vui và mến phục nói, “Thưa Thầy, xin hãy để chúng tôi dựng ba lều ở đây, một cái cho Thầy, một cái cho Mai-sen và một cái cho E-li-a.” Khi Chúa Giê-su đi xuống núi, Ngài đã nói với họ là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem và chịu đóng đinh, nhưng họ đã không hiểu điều Ngài nói, họ không muốn biết.

Một trường hợp khác, như anh chị em nhớ về bài Tin Mừng vài tuần lễ trước đây, người thanh niên giầu có đến với Chúa Giê-su và hỏi Ngài, “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được cứu rỗi?” Khi Chúa Kitô bảo điều anh phải làm, anh đã buồn rầu bỏ đi bởi vì anh đã thích những của cải trần thế đời này.

Sau đó, Chúa Giê-su đã nói một lần nữa là Ngài sẽ đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh. Ở một trường hợp khác khi Ngài chữa cho một người bệnh, sau khi đã chữa xong, Ngài nói với các môn đệ, “Thầy đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.”

Chúa Giê-su đang trên đường đi Giê-ru-sa-lem nhưng người ta dường như không hiểu là Ngài đang đi chịu đóng đinh để hoàn tất việc cứu chuộc nhân loại. Người ta chỉ nghĩ đến bây giờ và lúc này, giống như Gia-cô-bê và Gio-an đã tranh luận xem ai sẽ là người cao trọng nhất trong Nước Thiên Chúa khi Chúa Giêsu đến trong vinh quang của Ngài. Người ta đã chờ đợi một Đấng Cứu Thế trần tục, một người sẽ đến Giê-ru-sa-lem và trở nên Vua của Người Do Thái, giải thoát họ khỏi xiềng xích nô lệ. Đó là điều mà họ mong đợi tìm kiếm, bây giờ và lúc này.

Tiếng Kêu Của Anh Mù

Khi Chúa Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem, ngài đã dừng lại và thấy một người mù ngồi bên vệ đường. Người mù đó kêu la, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Đám đông dân chúng ngăn cản ông, “Im đi, tránh ra. Chúng tôi đang trên đường đi về Giê-ru-sa-lem nơi mà Ngài sẽ lên làm vua.” Họ đang mong đợi một cuộc diễn hành chiến thắng vào thành Giê-ru-sa-lem nơi dân chúng sẽ tôn Chúa Giê-su lên làm vua. Ngài đã nhắc bảo họ thêm một lần nữa, “Ta đang trên đường vào Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh.” Nhưng người mù lại kêu lên và nói, “Lạy Ngài xin thương xót tôi.” Và không màng chi đến đám đông, không màng chi đến việc người ta đang xua đuổi người mù đó đi, Chúa Giê-su đã gọi anh đến và nói, “Hãy tiến lại đây và Ta sẽ chữa cho ngươi.” Anh mù đã tiến đến. Ngài đã nói cách rõ ràng, “Đức tin của anh đã cứu chữa anh.” Người mù đã xin tình thương, bởi vì anh biết anh có thể nhận được tình thương. Anh đã kêu đến Thiên Chúa để được sáng mắt, để anh có thể nhìn thấy được.

Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong tình trạng giống như thế ngày nay. Luôn luôn có những người nói là, “Tránh ra, đi chỗ khác chơi, đừng làm ồn ào, đó không phải là cách làm việc trong những ngày này.” Ngay cả trong Giáo Hội cũng có những người nói, “Chúng tôi không đi tìm Nước Thiên Chúa, chúng tôi đi tìm sự thỏa mãn bây giờ và lúc này. Đây là những cái chúng tôi muốn, do đó đừng la lối, đừng đòi hỏi nữa. Chúng tôi mong xót thương và tha thứ, chúng tôi muốn thay đổi Giáo Hội, cải cách Giáo Hội để chúng tôi co thể có những điều chúng tôi muốn bây giờ và lúc này.” Bất cứ điều gì họ đòi hỏi, anh chị em đã nghe hết cả rồi.

Nhưng người mù đã không quan tâm đến đám đông, anh đã la lên. Anh đã nhận ra sự mù lòa và bệnh trạng của anh, và anh biết là Chúa Giê-su Kitô có thể cứu chữa cho anh đo đó anh đã kêu cầu Chúa Giê-su. Và dĩ nhiên khi Chúa Giêsu được kêu đến, thì Ngài luôn luôn đáp lại.

Tiếng Kêu của Chúng Ta

Tất cả mọi người chúng ta đều có đức tin ở mức độ nào đó. Anh chị em đã không đến nhà thờ nếu anh chị em không có chút niềm tin, có thể là tin ít hay cũng có thể là tin nhiều. Nhưng chúng ta tất cả đều có đức tin, nhiều hay ít, và biết rằng chúng ta có những yếu đuối, có những mù quáng, và những khuyết điểm trong đời sống thiêng liêng. Đám đông quần chúng tiếp tục bảo chúng ta rằng, “Đừng lo lắng chuyện đó, thời gian sẽ thay đổi, sẽ không còn luân lý đạo đức, qúi vị không cần quan tâm đến những điều đó.” Đám đông quần chúng tiếp tục đẩy anh chị em ra. Nhưng chúng ta phải kêu cầu đến Chúa Kitô. Ngài ở đó, đang chờ chúng ta, chúng ta phải kêu cầu đến Ngài và nói, “Lạy Chúa, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa xin bảo vệ chúng con, xin tha thứ cho chúng con."

Lúc khởi đầu mỗi Thánh Lễ, chúng ta nhìn nhận tình trạng tội lỗi của chúng ta và kêu xin tình thương xót của Chúa, rồi chúng ta nói, “Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.” Chúng ta xin Chúa thương xót nhưng nếu chúng ta không thực kêu xin tình thương xót, Ngài không thể nghe thấy. Trong đời sống, chúng ta có những mù tối, có những bất toàn, những thái độ hững hờ. Chúng ta đi theo dòng thời gian mỗi ngày làm theo thói quen như chúng ta đã làm tuần trước và chẳng bao giờ kêu cầu tới Chúa Kitô, “Lạy Chúa xin thương xót chúng con. Xin giúp chúng con thắng vượt sự yếu hèn này, sự mù tối này trong đời sống của chúng con.” Anh chị em biết là nếu anh chị em kêu cầu với Chúa Kitô Ngài sẽ đáp lại lời kêu xin, nhưng nếu anh chị em không kêu xin, Ngài sẽ không trả lời.

Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta có rất nhiều điểm mù quáng trong cuộc sống. Một số người cho rằng điều đó không sao cả, không phải lo đến những cái mù quáng đó, không phải lo đến những hững hờ đó. Nhưng, giống như người mù đã kêu lên với Chúa để xin được sáng mắt, chúng ta cũng phải xin Chúa Kitô lấy đi sự mù quáng của chúng ta để chúng ta có thể nhìn thấy phần thưởng Ngài dành cho chúng ta trên nước trời. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.

Thánh Ca : Bài Ca Thống Hối - Lm. JB. Nguyễn Sang

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

Nghe audio truyện : Đèn Không Hắt Bóng - Watanabe Zunichi



Tác phẩm : Đèn Không Hắt Bóng
Tác giả: Watanabe Dzunichi
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Lĩnh vực: Văn học nước ngoài
Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Năm xuất bản: 2005
Đơn vị xuất bản: Văn nghệ TP. HCM
Người đọc : VOV


Thật khó ngờ rằng trong con mắt của Noriko Simura, nữ y tá 24 tuổi vẻ ngoài mờ nhạt, những sự kiện bên trong cái bệnh viện hạng trung Oriental ở Tokyo ấy được ghi lại sắc bén. Ở nơi lằn ranh mong manh giữa sự sống và cái chết, mọi thứ đều thể hiện đúng bản chất, trong thời hạn ngắn ngủi. Theo những sắp đặt ngẫu nhiên, đủ hạng người nối nhau chảy về bệnh viện. Đó là những thân phận cô độc, tuổi già khốn khó bị bệnh nan y. Đó là nữ ca sỹ ngôi sao truyền hình nổi tiếng với hình tượng trong trắng ngây thơ bí mật vào bệnh viện giải quyết cái thai. Ngay trong đội ngũ bác sỹ, y tá, cũng có vô vàn khác biệt: từ vị giám đốc bệnh viện tính tình hời hợt, hào hứng kiếm tiền trên các bệnh nhân cho đến những nhân viên bé nhỏ như Noriko, nhận hậu nhưng không có quyền lực, chỉ biết âm thầm bên trang bệnh án và các ca trực đêm. Dù ồn ào hay lặng lẽ, mỗi người đều phải đối diện với những vấn đề của riêng mình. Cách đương đầu và giải quyết chúng sẽ cho lời giải đáp câu hỏi "Anh là ai? Trình độ của anh ra sao? Hiểu biết cuộc đời của anh rộng lớn đến đâu?" chính xác hơn hết thảy những ảo tưởng và hào quang mà bằng cấp, danh tiếng hay tài sản có thể tạo ra.

Với một người trẻ vừa rời trường đại học, bước vào môi trường bệnh viện như bác sỹ thực tập Kobasi, suy nghĩ về nghề nghiệp thật tươi đẹp. Thế nhưng, cái lý tưởng quá đẹp đẽ lại là rào cản, khiến anh không thể tương thích với thực tế nghiệt ngã. Giỏi chuyên môn chỉ là một phần. Cuộc sống liên tục đặt ra thử thách, giải quyết chúng khó gấp nhiều lần ca phẫu thuật phức tạp: Trung thực cho báo chí biết cô ca sĩ ngôi sao vào bệnh viện nạo thai hay giữ bí mật bằng cách nói dối cô ấy bị đau ruột thừa? Với một bệnh nhân già mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa lại nghèo khó, có nên để cho họ được đi vào cái chết một cách thanh thản? Kiểu khúc mắc mà Kobasi vấp phải xem ra chúng ta vẫn phải đối diện hàng ngày, dưới những tình huống khác của những nghề nghiệp khác mà thôi, nhưng bản chất vẫn đúng là như vậy.

Vị bác sĩ bí ẩn Naoê chừng như là một phương án giải quyết những vấn đề mà Kobasi mắc phải. Đầy trải nghiệm, Naoê biết cách xoa dịu tinh thần người bệnh, giúp họ chấp nhận thực tế. Không lãng tránh mâu thuẫn, không khăng khăng mù quáng lao theo con đường duy nhất, phải biết uyển chuyển để cuộc sống vận hành theo đúng quy luật của nó. Làm được điều này, người ta mới vượt qua những biểu hiện thô sơ của tình thương yêu, đưa lòng nhân ái bước lên một tầm mức cao hơn, sâu sắc hơn. Đó mới là đích đến của sự trưởng thành, trong cả công việc và nhận thức cuộc đời.

Đèn không hắt bóng, tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Watanabe Zunichi không đơn thuần kể về đời sống bệnh viện. Nhìn góc độ khác, nó là câu chuyện tình yêu lạnh lùng, bí ẩn và gây đau đớn. Mối quan hệ giữa Noriko và bác sĩ Naoê phải chăng là tình yêu một chiều? Đứng bên cạnh vị bác sĩ tài hoa, hình ảnh của Noriko khá lặng lẽ. Yêu Naoê, tự nguyện gắn bó với anh, cô vẫn phải chứng kiến hàng loạt mối quan hệ bất thường của Naoê với những phụ nữ khác. Từ vợ và con gái của bác sĩ viện trưởng, cô gái quán bar, cho đến cả nàng ca sĩ ngôi sao… Nhưng đau khổ hơn hết, cô nhận ra Naoê là một pháo đài riêng, không cho cô thâm nhập, ngay cả những giây phút gần gũi nhất cả về thân xác lẫn tình cảm. "Noriko chấp nhận thái độ khép kín của anh. Thậm chí, cô còn đi đến chỗ tin rằng mối quan hệ của một người đàn ông và một người đàn bà tất nhiên phải như vậy: Một sự bột phát của dục vọng, và sau đó là một sự im lặng dửng dưng. Noriko chỉ thấy mình thanh thản khi nào ở trong phòng của Naoê, ở bên cạnh anh. Và ngay cả khi hai người đều im lặng thì trong lòng cô cũng tràn đầy hạnh phúc…"

Chỉ đến khi Naoê mất đi, bức màn bí mật mới được vén lên. Giữa bao nhiêu phụ nữ vây quanh, Naoê chỉ yêu quý một mình Noriko. Cô chính là mảnh gương cuộc đời để anh soi vào, là chỗ bấu víu duy nhất trong những cơn đau đớn tuyệt vọng vì cái chết gần kề. Nhưng vì kiêu hãnh và xót thương, anh không bao giờ phơi bày sự thật với cô. Tình yêu bền bỉ của Noriko được đền đáp, dù muộn mằn.

Về sau, Watanabe Zunichi vẫn tiếp tục sáng tác, nhưng không thể vượt qua dấu ấn Đèn không hắt bóng. Nhiều thế hệ độc giả thuộc lòng tiểu thuyết độc đáo này, bởi không khí xám bạc dịu dàng đặc trưng Nhật Bản, bởi sự dằn vặt muôn thuở trước sự sống và cái chết. Và trước hết, đây là một câu chuyện song hành giữa sự cô độc và tình yêu. Đến phút chót, tình yêu đã cất lên tiếng nói cuối cùng, tràn đầy an ủi và vị tha.

Mời các bạn xem truyện "Đèn Không Hắt Bóng" tại đây hoặc tại đây

Mời các bạn nghe audio truyện "Đèn Không Hắt Bóng", tải về theo MediaFire tại đây , tải file audio book dạng m4b để nghe bằng iphone tại đây

Hoặc nghe theo YouTube tại đây


Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012

Phúc Âm Lễ Chúa Nhật Thứ XXIX (B) Mùa Thường Niên Ngày 21/10/2012



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ XXIX Mùa Thường Niên (năm B)

Nguồn:www.40giayloichua.net

Mời nghe Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật 29 MTN (B) - Khánh Nhật Truyền Giáo - do Đức Cha Phê Rô Nguyễn Văn Khảm thuyết giảng năm 1997

PHỤC VỤ
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. Quyền bính để phục vụ

a. Một nhà tu đức tên là Jean Vanier, người sáng lập dòng Arche, phân biệt hai loại quyền bính :

• Một loại quyền bính từ trên áp xuống. Người nắm loại quyền bính này tự coi mình là kẻ ở trên và những kẻ thuộc quyền mình là những người ở dưới. Người này bắt những kẻ dưới phải làm theo ý mình, nếu không theo thì phạt. Loại quyền bính này được dùng để cai trị, hay nói chính xác hơn là thống trị.

• Loại quyền bính thứ hai không từ trên áp xuống mà đứng bên cạnh để giúp đỡ. Người nắm quyền bính này không coi mình là ở trên cũng không coi kẻ thuộc quyền mình là ở dưới. Người này không nhắm cho ý mình được người ta thực hiện, nhưng nhắm đến ích lợi chung và ích lợi của kẻ mình muốn giúp đỡ. Loại quyền bính này được dùng để phục vụ.

b. Khi hai người con ông Dêbêđê, tức là Gioan và Giacôbê đến xin Đức Giêsu cho mình được hai chỗ bên tả và bên hữu Chúa là họ muốn loại quyền bính nào ? Thưa là quyền thống trị.

Nhưng Đức Giêsu đã từ chối. Lý do thứ nhất là Ngài thấy trong các tổ chức chính trị, hành chánh và xã hội, những người lãnh đạo đều thích loại quyền thống trị đó. Nhưng các tổ chức mà họ lãnh đạo người ta không được hạnh phúc gì cả, trái lại còn phải đau khổ. Lý do thứ hai là trong tổ chức mà Ngài thành lập, tức Giáo Hội, không có người trên kẻ dưới, không có người lớn kẻ nhỏ, mà tất cả đều bình đẳng với nhau vì tất cả đều là anh em với nhau, cùng là con của một Cha trên trời. Cho nên không có chuyện người này bắt người kia làm theo ý mình, nhưng mọi người đều giúp nhau để làm theo ý Cha trên trời. Bởi vậy trong Giáo Hội, quyền bính được trao không phải cho kẻ ham muốn kiếm tìm nó, mà trao cho những người nào có thiện chí và khả năng phục vụ.

c. Khi 10 môn đệ kia bực tức với hai người con ông Dêbêđê, thì họ cũng có quan niệm giống như hai ông này về quyền bính. Vì cùng ham quyền thống trị như nhau cho nên họ ganh tị nhau, bực tức nhau và tranh dành nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn như sau : một chiếc đồng hồ đeo tay một hôm đi dạo ở công trường trước một nhà thờ. Nó nhìn lên tháp nhà thờ thấy một chiếc đồng hồ rất lớn nên thấy ghét. Nó nói : Anh tưởng là anh ngon lắm hả. Thực ra cái mặt anh to quá khổ chẳng đẹp chút nào, hai cánh tay thì dài thượt coi chẳng đẹp gì cả. Giọng nói thì khàn khàn. Chiếc đồng hồ lớn chỉ mỉm cười và nói "Hãy lên đây". Chiếc đồng hồ nhỏ leo lên. Khi đứng bên chiếc đồng hồ lớn nhìn xuống thì nó mới hoảng sợ. Thì ra ở trên cao này nguy hiểm quá té xuống tan xác như chơi. Rồi lúc nào cũng bị bao nhiêu cắp mắt nhìn lên, và lại còn cô đơn nữa. Khi đó chiếc đồng hồ lớn khều nó nói "Ở dưới có người muốn biết giờ kìa. Em đưa mặt ra cho họ xem đi". Chiếc đồng hồ nhỏ đáp : "Không được, từ đây xuống dưới xa quá mà mặt em nhỏ quá ở dưới xem không thấy đâu". "Vậy thì em nói giờ cho họ nghe đi". "Cũng không được, vì tiếng em nhỏ quá". Khi đó chiếc đồng hồ lớn mới ôn tồn giải thích : "Đó em thấy chưa. Em cũng không thể làm việc của anh, mà anh cũng không thể làm việc của em. Mỗi người chúng ta ai làm việc nấy, chỉ để phục vụ cho người ta thôi. Từ này về sau mình đừng chỉ trích nhau nữa nhé".

Câu chuyện rất ý nhị : mỗi người có một nhiệm vụ để phục vụ người khác. Kẻ ở địa vị cao thì phải phục vụ nhiều hơn. Và ở địa vị cao thì càng gặp khó khăn nhiều hơn, có khi còn cô đơn hơn nữa.

d. Bởi vậy, khi hai người con ông Dêbêđê xin địa vị, Đức Giêsu đã hỏi : "Chúng con có uống nổi chén đắng không ?" Địa vị và quyền bính trong Giáo Hội luôn đi kèm với chén đắng, tức là những hy sinh, đau khổ.

* 2. "Các anh không biết các anh xin gì"

Chuyện hai người con nhà Dêbêđê xin được hai địa vị trong Nước Đức Giêsu không có gì lạ. Có lạ chăng là họ đã xin điều đó liền ngay sau khi Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.

Ai mà không thích địa vị. Nhiều người cũng giống hai môn đệ kia thôi, chỉ khác là không dám nói ra như họ.

Vả lại Đức Giêsu cũng không muốn lập một Giáo Hội không có phẩm trật. Giáo Hội, như bất cứ tổ chức nào khác, cũng cần có phẩm trật, kẻ trên người dưới chứ.

Cái đáng nói là hai môn đệ ấy đã xin một điều mà họ không hiểu :

• Họ không hiểu rằng trong Nước Chúa, địa vị rất khác với nước trần gian, vì địa vị là để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ mình.

• Họ không hiểu rằng có địa vị trong Nước Chúa thì họ sẽ phải uống chén đắng chứ không phải sẽ ngồi đó mà hưởng thụ.

Tóm lại, họ không đáng trách vì đã ham muốn địa vị, nhưng đáng trách vì chưa hiểu mục đích và điều kiện của địa vị trong Nước Chúa, thế mà đã nhanh nhẫu xin cho bằng được.

* 3. Phục vụ

Một lần Đức Hồng Y Roncalli vừa từ trên xe bước xuống. Ngài mới đi xa về. Phái đoàn tòa Giám mục ra đón. Mọi người ngạc nhiên trên vai áo Hồng Y có vương mấy cọng rơm đồng quê. Ai hỏi ngài cũng cười xoà vui vẻ, nhưng mấy nhân viên phụ tá trên xe đều hiểu chuyện. Chiếc xe của Đức hồng Y đang từ hướng Bắc xuống miền Nam qua vòng đồng ruộng. Giữa đường một chiếc xe bò chở rơm sa hố. Người đánh xe gắng sức đẩy phụ nhưng xe không nhúc nhích. Đức Hồng Y cho xe dừng lại, xắn tay áo hò dô ta đẩy phụ, và chiếc xe rơm sa lầy lại chuyển bánh tiếp tục lên đường.

Những cọng rơm trên vai áo Hồng Y đối với ngài chỉ cười xoà cho qua. Nhưng thực sự tỏ rõ cho chúng ta một Hồng Y không quản ngại khó khăn hay sợ bẩn chiếc áo dòng sang trọng.

Sau này lên ngôi Giáo hoàng, Đức Gioan 23 vẫn tiếp tục sống nếp sống bình dị phục vụ.

Lần khác, cả giáo triều Rôma báo động : "Đức Giáo hoàng mất tích". Nhân viên an ninh đổ xô đi tìm. Cuối cùng người ta gặp ngài đang chuyện trò thân mật với các tù nhân trong khám đường Rôma.

*

"Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mc.10,45).

Đó là Hiến chương Nước Trời, là Hiếp Pháp Đức Kitô đã tuyên bố cho Giáo hội. Từ đây, mỗi tín hữu Kitô phải là đầy tớ của mọi người.

Người lãnh đạo trong Giáo hội chính là "Đầy tớ của các đầy tớ" (Sevrus Servorum). Chữ Latin "Minister" có nghĩa là đầy tớ. Vì thế, trong Giáo hội chỉ có kẻ thừa sai, người thừa tác, nữ tì, tôi tá, hay mục tử chăm lo cho đoàn chiên.

Mẹ của Giacôbê và Gioan xin Đức Giêsu cho hai con bà được làm tể tướng trong nước của Người. Nhưng họ đã không hiểu rằng Đức Giêsu không bước lên ngai vàng để thống trị, mà Người chỉ leo lên thập giá để hiến dâng mạng sống, để yêu thương và "yêu cho đến cùng". (Ga.13,1).

Hôm nay, Chúa cũng mời gọi các tín hữu Kitô hãy noi gương Người : Phục vụ và hiến dâng mạng sống cho tha nhân. Trước nhất là yêu thương phục vụ những người trong gia đình : "Charity begin at home" (Bác ái bắt đầu từ gia đình), sau đó mới lan tỏa sang những người chung quanh, nhất là những người nghèo hèn, yếu đuối.

Nếu chúng ta chưa nên giống được như Cha Maximilien Kolbe xin chết thay cho bạn tù, như thánh Martino Porres bán mình làm nô lệ, hoặc như cha Damien tông đồ người hủi, thì ít là mỗi ngày chúng ta hãy âm thầm phục vụ hết mình những người thân yêu, những người Chúa giao phó trong gia đình mình, trong cộng đoàn mình.

Báo chí Pháp đăng hình của Cha Damien sau mấy chục năm phục vụ trong trại cùi, ghép cạnh hình cha hồi còn tẻ. Tấm hình gây xúc động cho biết bao con người. Khi nhìn vào tấm hình, mẹ Ngài không thể tin được con mình đã thay hình đổi dạng đến thế. Chính thái độ tận tụy phục vụ đã tiêu hao sức lực và tàn phá hình hài con người. Vì thế, chúng ta không thể phục vụ nếu không có sẵn một tấm lòng dấn thân quảng đại.

Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất. Albett Shweitzer đã nói : "Người hạnh phúc thật là người biết tìm cách sống thiện ích cho người khác". Martin Luther King nói : "Chúng ta học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại chưa học sống với nhau như anh em". Ở giây phút định mệnh của mỗi con người chỉ có cường độ tình yêu và tinh thần phục vụ là có giá trị.

*

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng có một chút ham mê địa vị, chức quyền. Nếu Chúa xếp đặt cho chúng con một chức vụ nào đó, xin cũng ban chúng con một ơn này, là chức vụ càng cao, chúng con càng biết khiêm tốn phục vụ anh em nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 4. Hiến thân phục vụ

Thiên Chúa đã gọi Cha Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó

Một cậu bé nhà nghèo bị bố bỏ rơi, 4 tuổi đã phải đi ăn xin. Xong tiểu học ở tuổi 13, Giuse Lê Đình Kỷ (Joseph Wresinski) học được nghề làm bánh ngọt để sống tới tuổi 19. Qua trung gian phong trào Thanh Sinh Công, cậu được hướng dẫn theo ơn gọi linh mục.

Năm 1937 cậu nhập ngũ theo tuổi quân dịch. Hai năm sau, chiến tranh bùng nổ ở Pháp, cậu bị bắt làm tù binh nhưng trốn được và về học ở chủng viện Sinh Đông (Soissons), nơi Thầy Giuse thụ phong linh mục năm 1946. Kế đó là 4 năm làm cha phó và 6 năm làm cha sở.

Năm 1956 Cha Kỷ được giao nhiệm vụ mở ra một giai đoạn hoàn toàn mới không riêng cho cha. Cha ghi lại như sau :

Đức Giám Mục đã phái tôi đến trại tiếp cư khẩn cấp vùng ngoại ô Noisy-le-Grand của Thủ đô Paris. Ngày đầu tôi tới đó là 14 tháng 7, 1956. Tôi được gặp những gia đình gợi nhớ tình cảnh túng quẫn của mẹ tôi. Trẻ con tới tấp tới quấy phá tôi, tôi kể đó là những người em trong gia đình tôi.

Đó là hình ảnh của chính tôi, bốn mươi năm trước đây trên đường Gia-cô-bê của thành phố Aùnh Dương (Angers). Từ ngày tôi đặt chân tới trại, chính những gia đình ấy đã khởi hứng cho tôi về tất cả những gì tôi thực hiện nhằm giải phóng họ. Họ ôm chầm lấy tôi, ám ảnh tôi, thúc bách tôi, đưa đẩy tôi cùng với họ thiết lập một phong trào. Chính họ rèn luyện nên căn tính riêng và tự xưng là "Thế giới thứ Bốn".

Để cha hiến thân phục vụ người nghèo

Tại sao gọi là "Thế giới thứ Bốn" ? Cha Kỷ muốn người ta nhìn nhận phẩm giá của những gia đình đó. Ngài muốn nói lên thái độ của họ muốn từ khước túng quẫn. Chính vì muốn chấm dứt cảnh túng quẫn của họ nên Cha Kỷ đã khởi xướng kế hoạch phát triển cộng đồng cùng với họ. Cùng với những gia đình đó, cha Kỷ đã thiết lập phong trào Trợ Giúp người lâm bất cứ cảnh túng quẫn nào (Aide à Toute Détress (ATD), tức International Movement ATD Fourth World).

Nhật ký của Cha Kỷ ghi tiếp :

"Ngày đó, tôi nguyền làm cho thế giới biết đến những gia đình đó. Tôi đoan thề sẽ tìm cho họ nơi ở xứng đáng, thanh niên có việc làm, người trẻ được dạy nghề, trẻ con có trường để học hành. Hôm đó tôi chọn cho tôi con đường nhắm tới mục tiêu là làm cho người nghèo có chỗ đứng và chỗ đứng ấy được thế giới nhìn nhận và tôn trọng. Tôi sẽ phải làm thế nào để họ có cơ hội trèo lên những bậc thang của Liên Hiệp Quốc, của cơ quan Giáo Dục UNESCO, của Tổ Chức Lao Động thế giới (ILO), của Hội Đồng các nước Âu Châu và của Vatican, để tiếng nói của họ được nghe thấy.

Năm 1961 Cha Kỷ thiết lập Viện nghiên cứu đầu tiên để nghiên cứu về cảnh cùng cực (Research Institute on extreme poverty), lôi cuốn các chuyên gia đến từ các nước và các ngành khoa học. Qua những chuyến công du và những bài thuyết trình, nhiều dự án nghiên cứu của phong trào lan rộng đến nhiều nước Âu Châu và Hoa Kỳ.

Được thúc đẩy do thâm tín rằng túng quẫn phải được chấm dứt khỏi đời sống con người, những người thiện nguyện đầu tiên đến cộng tác với cha Kỷ từ năm 1960. Họ đến từ nước, thuộc nhiều quốc tịch, nhiều tín ngưỡng và nghề nghiệp. Một số có gia đình, một số độc thân. Con số những thành viên chí nguyện này hiện là 350 tại 20 quốc gia, trong số đó 200 người đã phụcvụ trên 5 năm và 35 người đã phục vụ trên 20 năm. Họ sống trong những cộng đoàn nơi họ phục vụ bằng cách cổ võ giao lưu giữa những gia đình nghèo và dân chúng nói chung.

Cuộc viếng Ấn Độ năm 1965 khiến Cha Kỷ có thêm phong trào Tapori, trong đó các em thiếu nhi từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội trở nên bạn thân với nhau. Song song nữa là phong trào thanh niên cũng nhằm mục tiêu là gây tình bạn vượt mọi rào cản.

Hai biến cố đánh dấu năm 1987 là năm chót đời cha Kỷ. Năm ấy cha đệ lên Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội của Pháp Quốc một đề nghị tổng hợp nhằm diệt tận căn bệnh nghèo trường kỳ. Tài liệu của cha Kỷ nhan đề là "nghèo cùng cực và sự bấp bênh Kinh Tế và Xã Hội" khiến chó nước Pháp đã làm luật để bảo đảm đồng lương tối thiểu. Điều này đã gây hứng khởi cho những nước khác của Âu Châu và lôi kéo sự chú ý trên toàn cầu.

Cũng năm ấy, vào ngày 17 tháng 10, trước sự có mặt của trên 100,000 người từ khắp nơi trên thế giới, cha Kỷ đã đặt viên đá kỷ niệm nhằm tán dương những khổ đau và lòng can đảm của người nghèo. Viên đá kỷ niệm được đặt tại Công Trường Các Quyền Con Người tại Paris, đối diện tháp Eiffel. Bảng viết ghi rõ : "Bất cứ khi nào người nam hay nữ phải sống trong nghèo khổ thì quyền làm người của họ bị chà đạp (condemned). Ta có bổn phận cùng nhau bảo đảm cho những quyền đó được tôn trọng."

Trong lễ an táng cha Kỷ tại nhà thờ chính toà Paris, Đức Hồng Y Lustiger nói : "Thiên Chúa đã gọi cha Giuse Kỷ bước ra khỏi vực thẳm của nghèo khó để cha hiến thân trở nên sức hút nhằm loại bỏ tận căn tệ nạn người loại bỏ người. Điều dễ phát sinh ra căm hờn đã trở nên dấu chỉ của tình thương. Điều dễ phát sinh ra tàn phá đã mở lối vào để con người được triển nở, được nhận ra mình và khám phá ra phẩm giá của mình.

Lý tưởng cao đẹp nhất của người môn đệ Đức Giêsu

Câu chuyện Cha Kỷ hiến thân phục vụ người nghèo được kể để giúp lãnh hội ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. Ý nghĩa ấy quả thật ngược lại với xu hướng tự nhiên của Nhóm Mười Hai. Khởi sự là hai anh em trong nhóm, tức Giacôbê và Gioan, đã xin để được ngồi bên hữu bên tả Đức Giêsu khi người thiết lập Vương quốc, nhưng Người đã giao cho hai ông vác thập giá theo Người. Lời hai anh em này yêu cầu cũng dễ hiểu vì cả nhóm đã từng : "cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả" (Mc 9,34). Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy chính bà mẹ của hai ông nói lên lời thỉnh cầu của gia đình (Mt 20,20). Nhưng Đức Giêsu đã phản ứng với lời thách đố : "các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ?" (Mc 10,38). Đức Giêsu có ý nói tới cơn hấp hối và cái chết mà Người sẽ chịu. Hai anh em được thách đố để theo Đức Giêsu đến cùng. Đức Giêsu kết thúc đối thoại bằng cách đặt hai anh em trước một câu trả lời đòi họ phải được hoán cải để theo ý muốn của Thiên Chúa. Người nói : "Có thể Chúa Cha sẽ dành địa vị cho các anh, nhưng các anh phải sẵn sàng vác thập giá tôi vác, uống chén đắng tôi uống và chịu phép rửa tôi chịu." Nghĩa là hai anh em phải bước theo Đức Giêsu cho tới cái chết trên thập tự.

Không riêng hai anh em là Giacôbê và Gioan, mười người còn lại trong nhóm Mười Hai, đều bị chỉnh khi họ tỏ ra tức tối với hai anh em liên quan tới việc tranh giành ảnh hưởng giữa nhau. Để bước theo Đức Giêsu cần phải dứt khoát loại bỏ thái độ "hống hách đối với người khác" (c.42). Là Kitô hữu có nghĩa là trở nên kẻ phục vụ tha nhân như Đức Giêsu đã phục vụ (c.45). Ai ở địa vị cao nhất và uy thế nhất, người đó nhận lấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của mọi người theo gương Đức Giêsu (c.44). Đó là con đường đưa người môn đệ vào vinh quang của Đức Giêsu.

Bài Tin Mừng hôm nay liên quan trước hết tới hai môn đệ thân cận nhất của Đức Giêsu là ông Giacôbê và Gioan (cùng với Simon-Phêrô, hai ông này được Đức Giêsu chọn để tháp tùng Ngài lên núi biến hình (9,2-9) và có mặt trong cơn hấp hối tại Vườn Dầu (14,32-42)). Sứ điệp mà Tin Mừng Máccô có ý truyền đạt liên quan tới địa vị lãnh đạo trong Giáo Hội, họ phải là người đầu tiên "uống chén đắng" bằng cách phục vụ nhu cầu của anh chị em, bất cứ là nhu cầu nào họ nhận thấy và bất cứ trong hoàn cảnh nào họ nhận ra. Đó quả là một đòi hỏi tận căn, hầu như không bao giờ người được giao trách nhiệm cảm thấy mình đã chu toàn được nhiệm vụ.

Nơi Cha Kỷ, ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay được sáng tỏ. Thiên Chúa đã an bài để Cha sinh ra trong khó nghèo hầu cả đời hiến thân phục vụ người nghèo. Cha không căm hờn người giàu nhưng đòi họ bằng mọi giá phải hoán cải bản thân. Bằng mọi giá họ phải trả lại cho người nghèo quyền lợi và phẩm giá thuộc về họ. Lý tưởng cao đẹp nhất được nêu cho người môn đệ Đức Giêsu là họ phải cúi mình phục vụ người nghèo theo gương chính Đức Giêsu. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

*

Đức Giêsu đã tuyên bố : "Con Người đến để được người ta hầu, nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người". Lạy Đức Giêsu, khi bắt đầu theo Chúa, các tông đồ còn mơ ước một cuộc sống giàu sang và quyền lực, nhưng sau các ngài đã hiểu và tự nguyện bước theo đường Chúa đã đi ; Xin giúp mỗi người chúng con biết noi gương các ngài, chấp nhận hy sinh thiệt thòi, để phục vụ cho việc truyền giáo. Amen!

Thánh Ca : Con đường nào Chúa đã đi qua - Lệ Hằng ;



BÁNH & NƯỚC
Lm. Mark Link

Câu cuối cùng trong bài Phúc Âm ngày hôm nay là một trong những câu hỏi nổi bật nhất trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta hãy nghe lại câu ấy: "CON NGƯỜI không đến để được phục vụ, nhưng để Phục vụ và hiến thân cứu chuộc nhiều người". Ít câu nào trong Kinh Thánh tóm tắt được cuộc đời Chúa Giêsu một cách hoàn hảo như thế.

Lần đầu tiên nghe nói về cuộc đời Chúa Giêsu, một Kitô hữu Nhật Bản nổi tiếng tên là Kagawa kêu lên: "Lạy Chúa, xin cho con nên giống Đức Kitô của Ngài". Và để nên giống Đức Kitô hơn, Kagawa đã từ bỏ căn nhà tiện nghi để đến sống trong những khu tồi tàn vùng Tokyo. Ở đó, ông chia sẻ chính bản thân và của cải mình cho bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trong cuốn sách nhan đề "Quyết Ðịnh Nổi tiếng Về Cuộc Ðời" (Famous Life Decision), Cecil North Cott viết: Kagawa đã cho đi hết áo quần của mình, và chỉ mặc trên người chiếc áo thụng rách nát tả tơi; vào một dịp khác, dù lâm bệnh rất nặng, ông vẫn tiếp tục thuyết giáo dưới cơn mưa, miệng lập đi lập lại không ngừng, "Thiên Chúa là Tình yêu, Thiên Chúa là Tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".

William Barclay cho chúng ta thấy tâm hồn và trí tuệ của Kagawa qua những lời của Kagawa mà ông trích dẫn như: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất, Ngài hiện diện giữa những kẻ ăn xin, Ngài nằm chung với những người bệnh hoạn, Ngài đứng về phía những người thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa thì hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm tù ngục trước khi đi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi đi dự lễ, hãy giúp đỡ kẻ nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh.

Khi đọc về một người như Kagawa, chúng ta nên tự vấn chính mình; chúng ta phải làm sao để có thể sống Phúc Âm một cách nghiêm chỉnh hơn trong đời sống mình? Phải làm sao để bắt chước đời sống phục vụ của Chúa Giêsu một cách thiết thực hơn? Phải làm sao để trở thành Kitô hữu đích thực hơn trong chính gia đình và trong môi trường làm việc của mình?

Dĩ nhiên không ai có thể trả lời dùm chúng ta, vì đây là những câu hỏi mà chúng ta phải tự trả lời lấy, nghĩa là mỗi người đang hiện diện ở đây sẽ phải trả lời những câu hỏi ấy theo cách thức của mình. Tuy nhiên, đừng bao giờ vịn cớ rằng: "Tôi không thể đến những khu tồi tàn ở Tokyo để sống giống như Kagawa đã làm", để rồi chúng ta chẳng làm gì nữa cả; vì nếu chúng ta không thể làm được một điều thật can đảm, thật anh hùng, thì điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn có thể làm được bất cứ việc gì khác.

Tất cả chúng ta đều có thể làm một điều gì đó dù rất là nhỏ bé và xem ra vô nghĩa, khởi đầu là cho chính những người thân trong gia đình chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ có những may mắn mở rộng việc phụng sự ra môi trường xa hơn, còn nếu chúng ta không khởi sự ngay từ gia đình mình thì chúng ta cũng sẽ không bao giờ khởi sự được ở bất cứ nơi nào khác.

Sau đây là một trong những ví dụ hấp dẫn nhất nói về việc phục vụ tha nhân khởi sự từ chính gia đình mình. Đó là câu chuyện được đăng trong tạp chí Leadership (Giới lãnh đạo) cách đây ít lâu:

Một cậu bé nọ cứ cố tình đi học về trễ hoài mà chẳng có lý do gì chính đáng cả, dù đã có biết bao lời khuyên nhủ răn bảo cậu. Cuối cùng, vì quá thất vọng, bố cậu bảo cậu ngồi xuống và nói; "Lần sau con còn về trễ nữa là con chỉ được ăn tối bằng bánh mì với nước lã thôi, ngoài ra không được ăn thứ gì khác nữa nhé. Con nghe rõ chưa?" Cậu bé nhìn thẳng vào mắt cha và gật đầu. Cậu đã hoàn toàn hiểu ý bố cậu.

Vài ngày sau, cậu bé về nhà còn trễ hơn bình thường nữa, Mẹ cậu gặp cậu ở cửa song chẳng nói một lời. Cha cậu gặp cậu trong phòng khách nhưng cũng vẫn chẳng nói lời nào với cậu. Tuy nhiên, tối hôm ấy, khi mọi người quây quần bên bàn ăn, trái tim cậu bé như muốn thót lại khi thấy đĩa cha cậu chất đầy thức ăn, đĩa của mẹ cũng thế, còn đĩa của cậu thì chỉ có một khúc bánh mì, bên cạnh có một ly nước lã, trông hiu quạnh làm sao! Đầu tiên cậu liếc nhìn miếng bánh, sau đó lại nhìn qua ly nước lã. Đây chính là hình phạt bố mẹ cậu đã nói trước với cậu, đáng buồn hơn nữa là tối nay cậu lại cảm thấy đói quá chừng.

J. Allan Peterson, tác giả câu chuyện đã mô tả diễn tiến sự việc như sau: "Người bố chờ cho bầu khí căng thẳng lắng xuống đoạn lặng lẽ cầm chiếc đĩa của cậu đặt trước mặt ông, rồi cầm chiếc đĩa của ông đặt trước mặt cậu bé…" Cậu bé chợt hiểu ngay điều bố cậu đang làm. Bố cậu đã nhận hình phạt mà lẽ ra chính cậu phải chịu vì hành vi bê bối của riêng cậu…. Mãi nhiều năm về sau, chính cậu bé ấy vẫn nhớ đến biến cố và nói: "Chính nhờ hành vi bố tôi đã làm tối hôm ấy, mà suốt cả đời, tôi đã hiểu được Thiên Chúa tốt lành biết bao!".

Câu chuyện trên giúp ta hiểu thật dễ dàng điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua lời Ngài nói trong Phúc Âm hôm nay; "Con Người…. đến… để hiến mạng cứu chuộc nhiều người". Đức Giêsu đã đến trong thế gian để làm cho chúng ta điều mà bố cậu bé đã làm cho cậu. Ngài đến để đền tội lỗi chúng ta bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá.

Vậy, để kết thúc, chúng ta hãy nhớ rằng bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta một thách thức; Đó là chúng ta phải hiến mạng sống mình để phụng sự tha nhân như Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta và nơi chốn tốt nhất để khởi sự việc này là chính gia đình ta và môi trường làm vịêc của ta. Nếu chúng ta khởi đầu từ những môi trường này, chúng ta sẽ mở rộng được lòng yêu thương phục vụ của chúng ta sang những môi trường khác nữa.

Biết đâu vào một thời gian nào đó, chúng ta sẽ có dịp phục vụ kẻ khác cũng quảng đại như Kagawa đã làm nơi những căn nhà tồi tàn vùng Tokyo. Chúng ta sẽ có thể có dịp phục vụ tha nhân cũng quảng đại như người bố trong câu chuyện đối với đứa con hư của mình. Tuy nhiên, trước khi chúng ta hy vọng có thể bay được thì chúng ta phải tập đi bộ đã. Và bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta bắt đầu tập đi bộ, mời gọi chúng ta bắt đầu phục vụ lẫn nhau, ngay từ trong gia đình và môi trường làm việc của chúng ta; Đó chính là lời mời gọi chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu là Đấng đã phán"

"Con Người đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ và hiến mạng sống cứu chuộc nhiều người".

Thánh Ca : Con Chỉ Là Tạo Vật - Lm. JB. Nguyễn Sang

Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Chương Trình Ti Vi Ánh Sáng Tin Mừng Chúa Nhật ngày 14/10/2012



Mời các bạn theo dõi Chương trình Ti Vi Ánh Sáng Tin Mừng ngày Chúa Nhật 14/10/2012



Bạn có thể xem lại các Chương trình Ti vi Ánh Sáng Tin Mừng của các tuần trước tại đây

Chủ Nhật, 14 tháng 10, 2012

Phúc Âm Lễ Chúa Nhật Thứ 28b MTN ngày 14/10/2012



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ XXVIII Mùa Thường Niên (năm B)

Nguồn:www.40giayloichua.net

Mời nghe Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật 28 MTN (B) do Đức Cha Phê Rô Nguyễn Văn Khảm thuyết giảng năm 1997

Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. Thập giá và vinh quang

Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập. Ðiểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá là gì. Ðầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ: "Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Họ đáp bừa: "Thưa được". Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ khác phải bực bội.

Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều khi chúng ta cũng giống như họ thôi:

•Thí dụ như anh chàng trong câu chuyện ở trên đó, chẳng chịu khó học hành mà chỉ muốn có địa vị, có chức quyền trong xã hội, chẳng chịu khó làm việc mà chỉ muốn ăn lương như bộ trưởng.

•Nhiều người trong chúng ta không thích cần cù lao động, không cố gắng tiết kiệm, mà chỉ mơ được trúng số độc đắc. Nhiều người thèm muốn và phân bì với cảnh giàu sang của người khác, nhưng không nhớ rằng trước khi được giàu sang như vậy người ta đã phải cần cù làm ăn biết bao nhiêu năm trời.

•Ðó là về việc làm ăn. Còn trong chuyện gia đình cũng vậy. Nhiều người chỉ muốn con mình ngoan, con mình giỏi, con mình tốt nhưng chẳng chịu khó giáo dục con, nhất là chẳng bao giờ để ý làm gương tốt cho con. Thế rồi khi thấy con mình hư, không được như con người khác thì rầy, thì chửi, thì đánh đập. Hết chửi mắng đánh đập con cái rồi quay ra than thân trách phận, than rằng mình vô phước.

•Và trong chuyện đạo cũng vậy. Nhiều người chỉ biết cầu xin Chúa cho mình khá giả nhưng lại không chịu khó làm ăn. Bởi vậy mà có những người ngoại đạo đã mỉa mai rằng mấy người có đạo cứ cắm đầu đọc kinh Lạy Cha xin cho chúng con lương thực hằng ngày mãi, nhưng chờ xem Chúa có cho họ hay không! Có người chỉ biết có khoanh tay cầu xin như vậy, rồi khi túng thiếu thì cằn nhằn trách móc Chúa sao mình xin mãi mà Chúa không nhậm lời.

Những ước muốn của chúng ta cũng giống như những ước muốn của 3 mẹ con Zêbêđê: những lời cầu nguyện của chúng ta cũng giống như những lời xin của họ. Ước muốn suông, cầu nguyện suông thì không bao giờ đạt được. CG đã từ chối với 3 mẹ con ấy, rằng "Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho". Nghĩa là CG không muốn ban ơn cho những kẻ làm biếng, những người không dám chịu gian khổ. Ơn Chúa và vinh quang Chúa chỉ ban cho những kẻ trước đó đã can đảm trải qua gian nan thử thách. Chính bản thân của CG, để có thể đến với vinh quang phục sinh thì trước phải trải qua con đường gian khổ của Thánh giá. Chúa mà còn như thế thì huống chi là loài người chúng ta: không bao giờ có con đường tắt để đến vinh quang, cũng như không bao giờ có phép lạ cho những kẻ không chịu khó vác Thánh Giá, nói cách bình dân hơn: không trồng cây thì đừng hòng ăn trái.

Bài Tin Mừng hôm nay gồm vào một bài học chính: Phải qua Thập Giá thì mới có thể đến Vinh Quang, không thể đốt giai đoạn, không có con đường tắt. Bài Tin Mừng này khiến chúng ta phải xét lại đôi điều trong cuộc sống chúng ta.

Thứ nhất về lời cầu nguyện của chúng ta: Là người có đạo, chắc chắn chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Trong khi cầu nguyện chúng ta xin Chúa rất nhiều thứ: xin cho hằng ngày dùng đủ, xin cho gia đình hạnh phúc, xin cho con cái ngoan ngoãn, xin được khỏi cảnh túng thiếu, xin cho được qua một cơn tai nạn... Những lời cầu xin ấy chắc chắn là rất thành thực, rất tha thiết. Nhưng thành thật và tha thiết lắm thì cũng chỉ bằng lời cầu xin của 3 mẹ con nhà Zêbêđê là cùng. Nhưng Chúa đâu có nhận lời cầu xin của 3 mẹ con ấy. Tại sao vậy? Ðó cũng là thắc mắc mà một vài người đã đặt với tôi. Họ nói: Nhiều người không có đạo chẳng cầu xin gì hết mà vẫn giàu có, vẫn hạnh phúc, vẫn thành công; trong khi nhiều người có đạo cầu nguyện cầu xin hoài mà cũng chẳng được gì! Trước khi phàn nàn, trước khi bất mãn, chúng ta phải tự hỏi lại mình: phải chăng mình cũng giống như 3 mẹ con nhà Zêbêđê chỉ muốn vinh quang mà chẳng muốn gian khổ? Phải chăng mình đã không chịu cố gắng mà chỉ mong Chúa làm phép lạ? Phải chăng mình không trông cậy mà chỉ muốn ăn trái. Chúa không phải là một Ðấng chỉ biết ban ơn, chỉ làm phép lạ, mà Chúa là Ðấng vạch đường chỉ lối, đường lối đúng, đường lối tốt để ai biết đi theo thì sẽ đến được hạnh phúc vinh quang.

Và điểm thứ hai: đường lối ấy là gì? Ðó là con đường Thập giá dẫn đến vinh quang. Như vừa nói trên, chúng ta cầu nguyện nhiều, trước mỗi lần cầu nguyện chúng ta đều làm dấu Thánh Giá. Thì xin hãy nhớ trước tiên ý nghĩa của cây Thánh Giá. Trước khi mở miệng xin Chúa một điều gì thì chúng ta hãy xét mình xem chúng ta đã vách Thánh Giá chưa: thánh giá là những nỗ lực làm việc, thánh giá là trách nhiệm hằng ngày, thánh giá là phấn đấu, là mồ hôi, là gian lao cực khổ... Tay chúng ta làm dấu Thánh giá trước khi miệng chúng ta mở lời cầu xin. Nhưng nếu xét thấy chúng ta đã chưa chịu vác Thánh giá thì chúng ta cũng không nên mong những lời cầu xin của chúng ta được chấp nhận.

Hãy cố gắng vác Thánh giá trước đi, nghĩa là hãy cố gắng trước đi với những khả năng của mình - sau đó mới cầu xin, để Chúa thêm ơn bù cho những gì mà sức cố gắng của chúng ta không vươn tới được. Như vậy, mọi việc chúng ta làm đều là hợp tác giữa cố gắng của mình với ơn Chúa giúp. Và có như vậy thì mới có thể thành công.

* 2. Kho báu trên trời

Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói... Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".

Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh".

*

Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Ðức Giêsu: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ" (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta" (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.

Quả thật: "Ðồng tiền đi liền khúc ruột". Có thể nói: "Tiền đã thắng tình". Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết: "Ðiều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Ðức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.

Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết: "Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn". Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.

"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc.10,25).

Ðây là một kiểu nói Á Ðông, diễn tả một việc làm rất khó. Ðức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.

*

Lạy Chúa, Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm. Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ. Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.

Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 3. Chuyện minh họa

a/ Ðạo một mắt

Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.

Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: "Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!"

Nhiều người vẫn cầu nguyện: "Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa..." Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!

b/ Những thứ tiền không mua được

George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn."

Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:

•Tiền không mua được tình bạn chân thực.

•Tiền không mua được lương tâm trong sạch.

•Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.

c/ Ðổi tiền

Ðến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Ðó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.

Ðức Giêsu đã có nhận xét rằng: những người có của cải mà vào được nước Thiên Chúa, thật khó biết bao. Tin tưởng vào trợ giúp của Thiên Chúa. Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống đúng theo Lời Chúa dạy là rất khó, nhưng tin tưởng rằng nếu loài người không thể được, thì Chúa lại làm được mọi sự: xin Chúa giúp chúng con luôn sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng. Amen!

Thánh Ca : Tâm Tình Phó Thác ;



VÌ TÌNH YÊU CHÚNG TA PHẢI LÀM NHIỀU HƠN NỮA
Lm. Mark Link

James Kallam kể lại một mẩu chuyện vui trong các bài viết của ông như sau: Cách đây nhiều năm, có một thanh niên làm nghề bán sách rong từ nhà này đến nhà kia, anh đến hành nghề tại một vùng quê nọ. Một hôm, anh vào nhà một nông gia, ông này đang ngồi trên chiếc ghế xích đu ở cổng trước. Chàng thanh niên đến gần người nông dân nhiệt tình ngỏ lời: "Thưa ông, tôi có bán một cuốn sách chỉ cách canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách ông đang làm".

Người nông dân chẳng thèm ngước lên. Ông tiếp tục đong đưa chiếc ghế đu. Cuối cùng, sau vài phút, ông ta liếc mắt nhìn chàng thanh niên rồi nói; "Này anh bạn trẻ, tôi chả cần sách của anh, tôi cũng biết làm thế nào để canh tác sinh lợi gấp 10 lần cách thức tôi hiện đang làm".

***

Câu chuyện trên giúp ta hiểu rõ điều Chúa Giêsu đang nói trong bài Phúc Âm hôm nay. Người nông dân có khả năng canh tác tốt hơn nhưng ông ta lại thiếu nhiệt tình để dấn thân làm điều ấy. Chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng cũng dư sức làm nhiều hơn là chỉ tuân giữ các giới luật, nhưng anh ta chả có nhiệt tình để làm điều ấy. Bài Phúc Âm hôm nay nói thẳng cho ta thấy Kitô giáo không chỉ hệ tại việc tuân giữ các lệnh truyền. Chúa Giêsu tra vấn anh chàng giàu có về sự tuân giữ lệnh truyền như là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Chàng trả lời là đã tuân giữ tất cả lệnh truyền ấy, tức là chưa hề làm gì thương tổn ai… Về điểm này Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta. Nhưng đồng thời Ngài lại cho chàng ta thấy rõ Kitô giáo không chỉ là việc tuân giữ các huấn lệnh tiêu cực ấy như đừng trộm cắp hay lừa đảo…. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều: Ngài nói thẳng với anh chàng giàu có:

"Anh chưa bao giờ gây thương tổn cho ai quả là đáng khen, nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã biết dùng của cải để cho kẻ đói ăn, cho kẻ trần truồng mặc, cho kẻ vô gia cư trú ngụ chưa?"

Chính khi nghe điều này anh chàng giàu có kia nhận ra mình vẫn còn khiếm khuyết biết bao. Vì vậy Chúa Giêsu bèn thách thức anh: 'Nếu muốn theo tôi thì anh hãy thay đổi cách nhìn đi, đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, tỉ như không gây thiệt hại cho ai – và anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ người khác. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau"

Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho anh chàng giàu có thể tóm lược như sau; Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống vĩnh cửu, cũng như để theo tôi không?

Anh chàng giàu có trả lời:
- Thưa thầy, tôi cũng muốn theo Ngài lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia;

Thế là anh chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc dùng của cải không chỉ cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.

Điều này bày ra trước mắt mỗi người chúng ta ngay bây giờ hình ảnh sau: Nhiều người trong chúng ta giống như anh nông dân ngồi chơi trước cổng nhà. Chúng ta biết rõ chính mình có thể trở thành một Kitô hữu, tốt hơn gấp mười lần tình trạng hiện nay nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để làm điều ấy.

Chúng ta khác nào anh chàng giàu có trong Phúc Âm hôm nay. Chúng ta cũng đã tuân giữ những luật truyền, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại hết sức có thể đối với những người túng thiếu, kẻ trần trụi và người đói khát.

Vì công việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy đó là cần thiết để đem lại an bình và vui tươi trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của lề luật: cấm hại người, cấm gian dối, cấm trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại cô ấy, không nói dối, không xúc phạm đến cô ấy.. Tình yêu khiến anh phải làm hơn như thế rất nhiều, và nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những giới luật Chúa dạy, chúng ta mới chỉ là người "quen biết" với Chúa, chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu, chúng ta chưa yêu Chúa và thương tha nhân.

Chắc chắn nhiều người trong chúng ta đã biết mình phải làm gì để trở thành một Kitô hữu tốt hơn gấp mười lần hiện nay, nhưng chúng ta đã không làm, vì chúng ta thiếu tình yêu, thiếu nhiệt tình. Cũng như anh chàng nông dân ngồi trên ghế xích đu kia, anh đã biết rõ phải làm gì để canh tác có hiệu quả gấp mười lần phương pháp anh đang làm, nhưng anh đã không thèm làm. Lý do có thể là anh ngại ngùng phải bỏ vốn ra nhiều hơn, phải bỏ ra nhiều công sức hơn, phải mệt mỏi hơn. Lý do sâu xa hơn khiến anh ngại là vì anh chưa thấy nhu cầu của vợ con anh đang càng ngày càng tăng lên, hay anh chưa đủ quan tâm đến những nhu cầu ấy, hay nói cách khác đi là tình yêu của anh đối với những người thân của mình chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh hoạt động, làm những gì phải làm và nên làm.

Tình trạng đó Thánh Phaolô cũng đã cảm nghiệm được nơi con người của ngài. Ngài viết: "Quả thực ngay những gì điều tôi làm tôi cũng không hiểu được nữa, vì những gì tôi muốn thì tôi lại không làm, còn những gì tôi không muốn thì tôi lại cứ làm" (Rm 7:15). Và ngài đã giải thích tình trạng đó như sau: không phải là tôi hành động, mà là tội lỗi ở trong tôi đã hành động (Rm 7:20). Và theo ngài chỉ có Đức Kitô mới có thể cứu ta ra khỏi tình trạng ấy. (Rm 7:24). Do đó, muốn thoát khỏi tình trạng ù lỳ không chịu làm những gì cần phải làm, ta phải tin tưởng vào ngài đã đến để giải phóng ta khỏi tình trạng đó, và ta cũng phải hết lòng yêu mến ngài qua những người sống bên cạnh ta, chung quanh ta. Chỉ có tình yêu mới giải phóng ta khỏi tình trạng ù lỳ đó. Tình yêu phát sinh sức mạnh.

Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì mình đã theo được chính đạo, và tự mãn vì mình đã giữ luật Chúa một cách trọn vẹn từ hồi nhỏ, giống như anh chàng thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là một điều rất đáng khen, và Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước kia, là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Thiên Chúa và tha nhân. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, hay cần tới sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta, chúng ta không thể vừa nói mình yêu Chúa lại vừa làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu đó của anh em. Và chúng ta cũng cần phải có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất. Để đi vào cụ thể, tôi xin đề nghị với anh chị em là mỗi ngày chúng ta dành ra ít phút suy nghĩ để xét xem những người ở gần ta có nhu cầu gì mà ta có thể giúp đỡ cụ thể được, và chúng ta quyết định mỗi ngày làm một hai việc cụ thể giúp ích cho người khác, việc đó càng buộc ta phải hy sinh, thiệt thòi, mất mát thì càng tốt, và tối đến ta xét lại xem mình đã thực hành quyết định đó thế nào. Làm được như thế, chính là đã áp dụng phần nào tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay.

Để kết thúc, tôi xin nhắc lại lời kinh Cáo Mình mà chúng ta đọc mỗi khi chuẩn bị dâng Thánh Lễ, trong đó có câu; "tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót". Tôi xin nhấn mạnh đến "những điều thiếu sót", là những gì mà chúng ta đáng lẽ phải làm, nên làm, mà chúng ta đã không làm. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải ra tay cứu giúp người khác mà ta đã không ra tay. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải hy sinh cho người khác mà ta đã không hy sinh, vì chúng ta không muốn bị thiệt thòi, bị mất mát, bị phiền hà, là những lần đáng lẽ chúng ta phải bỏ tiền bạc ra để cứu giúp ai đó, nhưng vì tính bỏn xẻn, tính toán, khiến chúng ta lại thôi. Là những lần đáng lẽ chúng ta phải can đảm đứng ra bênh vực lẽ phải, nhưng vì sợ bị liên lụy, sợ bị lôi thôi, mà chúng ta đành làm ngơ để cho bất công được tự do hoành hoành. Mỗi lần đọc kinh Cáo Mình khi dâng Thánh lễ, chúng ta phải nghĩ đến những thiếu sót đó.

Thánh Ca : Giọt Lệ Trong Lời Kinh

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

Phim HongKong : Kỳ Án Nhà Thanh - Gối Thần Kỳ Án (P01-20 tập và P02-21 tập)




- Tên phim: Kỳ Án Nhà Thanh
- Đạo diễn: Lâm Chí Hoa
- Diễn viên:Âu Dương Chấn Hoa, Trần Hạo Dân, Quách Khả Doanh, Dương Di
- Nhà sản xuất:TVB
- Thể loại:Hài hước, Thần Thoại, Tình Cảm
- Tổng số: Phần 1 (20 tập) + Phần 2 (20 tập)
- Quốc gia:Hong Kong


Thi Thế Luân (Âu Dương Chấn Hoa đóng) có cha là tướng sĩ triều đình Thi Lang. Lúc nhỏ, Thi Thế Luân là một cậu bé thông minh lanh lợi. Năm 8 tuổi, cậu tận mắt chứng kiến cảnh một gia đình bị thảm sát. Cảnh tượng hãi hùng ấy đã in sâu vào tâm trí cậu bé, trở thành nỗi ám ảnh trong đời. Do được mẹ là Triệu Nguyệt Nga (Lý Phong đóng) hết mực cưng chiều, nên càng lớn Thi Thế Luân càng ỷ lại và lười biếng.

Sau khi Thế Luân được bổ nhiệm làm tân tri huyện Giang Đô, trong vụ án đầu tiên đã phán thằng Minh khờ (Lỗ Văn Kiệt đóng) trộm bánh chưng khi chưa kịp điều tra sự việc rõ ràng. Không lâu sau, Trần Minh treo cổ tự vẫn trong nhà. Thế Luân bị dân chúng cho là hung thủ giết người. Cái chết của Trần Minh khiến Thế Luân luôn ray rứt trong lòng. Sau khi Trần Minh qua đời vài ngày, Thế Luân bắt gặp Mễ Hương Dung (Quách Khả Doanh) và Huỳnh Thiên Bá (Trần HạoDân) lén lút đến mộ của Trần Minh cúng bái.Anh nghi hai người vì tiền mà giết chết Trần Minh, rồi dựng hiện trường giả. Nhưng cả hai đều có chứng cớ ngoại phạm. Vào một đêm mưa to gió lớn, Thi Thế Luân bị vấp ngã, đập đầu vào một chiếc gối bất tỉnh. Trong mơ, anh được thần gối Đường Đa Phước giúp điều tra vụ án Trần Minh. Hóa ra Trần Minh không phải tự sát mà là bị mưu sát. Hơn thế nữa, Thế Luân phát hiện trong bánh chưng có chứa một chưng cớ liên quan đến một vụ án giết người khác.

Trong một lần vào chùa, Huỳnh Thiên Bá gặp lại Trương Đạt (Âu Thoại Vỹ đóng). Năm xưa trên công đường, Trương Đạt đã chỉ chứng Thiên BÁ giết hai sư huynh trong tiêu cục, đánh trọng thương y và Mã Uy. Thiên Bá bị bắt vào nhà lao chờ xử trảm. Sau khi được mật báo, Thế Luân biết Thiên Bá đang mượn danh người khác. Anh cho người điều tra và phát hiện Thiên Bá và phạm nhân bị tử hình năm xưa có cùng dấu vân tay. Điều đó có nghĩa có ai đó đã giúp Thiên BÁ tráo đổi thân phận trước khi bị đưa ra pháp trường xử trảm. Sau khi tra hỏi Thiên Bá, Thế Luân rất bất ngờ khi biết được Hương Dung và Thiên Bá là hai chị em ruột. Chính Hương Dung đã giúp em mình thoát khỏi lưỡi dao pháp trường. Thế là hai chị em đều bị bắt vào ngục. Tối hôm đó, Thế Luân được thần gối báo mộng, hung thủ năm xưa không phải là Thiên Bá mà là Trương Đạt. Nhưng lúc này y lại bị giết chết. Tuy không có manh mối gì nhưng Thế Luân hứa với Hương Dung sẽ truy bắt tên hung thủ để trả lại trong sạch cho Thiên Bá.

Mễ Hương Dung là bà nha (một công việc dành cho các bà lớn tuổi trong huyện đường, như dọn dẹp, nấu nướng).Lợi dụng chức vụ của mình, cô thường tìm cách kiếm lời của phạm nhân. Việc làm của cô bị Thế Luân phanh phui, từ đó cô có hiềm khích với Thế Luân. Một lần nọ, vợ cả của Thế Luân là Bàng Cát Ái (Lữ San đóng) bị mất con vẹt. Thế Luân được thần gối mách bảo con vẹt đang ở Di Xuân Viên và khuyên anh cùng Hương Dung cải trang đến đó. Dưới sự sắp đặt của thần gối, Thế Luân và Hương Dung uống rượu đến say bí tỉ, rồi lăn đùng ra ngủ trên một chiếc giường. Cảnh trai đơn gái chiếc ngủ chung phòng bị mọi người phát hiện.Vì muốn bảo vệ trinh tiết cho Hương Dung, Thế Luân tuyên bố sẽ cưới cô làm vợ thứ tư. Thật ra thần gối Đường Đa Phúc là ông ngoại của Hương Dung. Oâng muốn tác hợp cho anh với Hương Dung. Nào ngờ, trước ngày cô dâu lên kiệu hoa làm lễ bái đường, đã bị bắt cóc.

Sau một thời gian trở thành vợ của Thi Thế Luân và có tình cảm sâu đậm với anh, Hương Dung phát hiện ra một bí mật. Thật ra, tên thật của cô là Đường Phụng, gia đình cô xưa thuộc dòng dõi quý tộc, nhưng 40 mạng người trong nhà đều bị cha của Thi Thế Luân là Thi Lang giết hại. Chỉ có em trai Huỳnh Thiên Bá và cô sống sót. Lúc ấy, Hương Dung rất rối trí. Cô vừa muốn trả thù, vừa muốn quên đi chuyện cũ. Muốn đánh mà không đánh được.Hương Dung cố tình khiến 3 bà vợ của Thế Luân xích mích, làm tổn thương đến mẹ chồng để bị đuổi ra khỏi nhà. Sau khi rời nhà họ Thi, Hương Dung mới biết mình đã có thai.

Trong quá trình điều tra lại vụ án năm xưa, Thế Luân phát hiện trong thời gian xảy ra vụ thảm sát ở Đường gia, cha anh đang dưỡng bệnh ở một nơi khác. Anh quyết tâm tìm ra tên hung thủ để trả lại sự trong sạch cho cha, đồng thời cứu vãn tình cảm vợ chồng giữa anh và Hương Dung.

Quái đạo Kim Hồ Ly sau 20 năm tuyệt tích giang hồ, bỗng xuất hiện đánh cắp dây chuyền trân châu của Tăng Cách Minh Châu (Dương Di đóng). Sợi dây chuyền ấy là bảo vật của mẹ cô để lại cho cô. Minh Châu năn nỉ Thiên Bá cùng cô đến Ngư thôn mang giống hoa mà mẹ yêu thích đến trồng trước mộ của bà để tạ lỗi. Trong lúc đó, vì giận Thế Luân nên Hương Dung đã trở về Ngư thôn. Sau khi Hương Dung bỏ đi, thần gối mới tiết lộ cô chính là phúc tinh của anh, bảo anh đến Ngư thôn tìm Hương Dung quay về nha môn. Ngoài ra, thần gối còn kể cho anh nghe câu chuyện Châu về hợp phố của Ngư thôn. Tương truyền một năm nọ, Ngư thôn không nuôi được trân châu, phải mang trân châu về biển cả. Làm như thế cuộc sống người dân ở Ngư thôn mới được ấm no. Không hẹn mà gặp, Thiên Bá, Minh Châu , Thế Luân và Hương Dung cùng tụ họp ở Ngư thôn. Qua lời kể của Minh Châu về người mẹ quá cố, họ sưu đoán rất có thể Kim Hồ Ly là người yêu cũ của mẹ Minh Châu.

Bàng Cát (Lữ San đóng) lớn tuổi hơn Thế Luân. Hai người chơi thân với nhau từ nhỏ. Sau khi nhìn cảnh gia đình nọ bị thảm sát, Thế Luân hoảng sợ đến ngây dại. Nhờ sự chăm sóc tận tình của Cát Aùi, anh mới dần bình phục.Từ nhỏ đến lớn, Thế Luân luôn dựa dẫm vào Cát Aùi. Thấy vậy, mẹ của anh mới sang nhà cô dạm hỏi cô về làm dâu. Sau khi vào nhà họ Thi, Cát Aùi làm tròn bổn phận vợ hiền dâu thảo. Nhưng cô chưa sinh cho anh được mụn con nào.Vì thế cô đồng ý cho Thế Luân cưới vợ nhỏ để nối dõi tông đường.

Mời các bạn xem bộ phim ( Phần 1 ), xem theo Playlist YouTube tại đây



Mời các bạn xem bộ phim ( Phần 2 ), xem theo Playlist YouTube tại đây



Thứ Ba, 9 tháng 10, 2012

Chương trình Ti Vi Ánh Sáng Tin Mừng ngày Chúa Nhật 07/10/2012



Mời các bạn theo dõi Chương trình Ti Vi Ánh Sáng Tin Mừng ngày Chúa Nhật 07/10/2012



Bạn có thể xem lại các Chương trình Ti vi Ánh Sáng Tin Mừng của các tuần trước tại đây

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

Phúc Âm Lễ Chúa Nhật thứ 27 Mùa Thường Niên (năm B) ngày 07/10/2012



Lời Chúa trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ XXVII Mùa Thường Niên (năm B)

Nguồn:www.40giayloichua.net

Mời nghe Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật 27 MTN (B)- Lễ Đức Mẹ Mân Côi - do Đức Cha Phê Rô Nguyễn Văn Khảm thuyết giảng năm 1997

Hôn nhân bất khả phân ly   
Lm.Carôlô Hồ Bạc Xái

* 1. Gia đình: Vấn đề Ly hôn và con cái

"Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết... Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại... chính tôi nữa!"

Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.

Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!

Lý do người ta dựa vào, là "Ðã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau". Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây:

1.Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.

2.Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?

3.Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Ðó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?

Ðó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn... Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:

1.Những người biệt phái dẫn chứng với Ðức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Ðức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Ðức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.

2.Ðức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại "Ðiều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly". Nghĩa là Ðức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.

3.Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Ðức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.

* 2. Chung thủy trong tình yêu

Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.

Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.

Hồ Tử nói:
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!

Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.

Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Ðáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!

*

Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Ðó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Ðiều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.

Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.

Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.

Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Ðavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.

Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Ðó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.

Hình ảnh "Ðức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.

Ðức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".

*

Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.

Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 3. Trở lại thành trẻ thơ.

Ðức Giêsu nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào".

Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ:

1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.

Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin...

2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.

3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau:

- Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.

* 4. Chuyện minh họa

a/ Ðổi lời tuyên hôn

Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị:
- Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ: Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau "cho đến chết", Cha có thể đổi lại là "cho đến khi không còn yêu nhau nữa" được không ạ?

Linh mục hỏi lại:
- Tại sao thế?
- Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.
- Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.
- Nghĩa là sao ạ?
- Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã.
- Thế nào là hôn nhân nửa vời?
- Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa; thứ hai là nửa vời về chọn lựa: chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau; thứ ba là nửa vời về dấn thân: chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.
- Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn?
- Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.
- Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu?
- Ðúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.

b/ Nam và nữ

Truyện kể Ấn độ về tạo dựng: Khi tạo dựng người nam xong, Ðấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.

Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.

Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Ðấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.

Một tuần sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy".

- Ðược.

Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Ðấng sáng tạo và nói: "Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con".

- Ðược.

Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy!"

- Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy!

Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng: "Con sẽ làm gì? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy!"

Thiên Chúa đã liên kết người nam và người nữ thành vợ chồng trong hôn nhân, xin cho họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy: "Ðiều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly". Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người.Amen!

Thánh Ca : Bao La Tình Chúa ;



TÌM LẠI SỰ NGẠC NHIÊN
Lm. Mark Link

Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: "Đi đạo với Bà Tôi". Bài được viết theo thể đối thoại như sau;
Ricky hỏi: Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào cuối mùa hạ?
Bà trả lời: Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần mặc lấy lá mới.
- Những lá mới từ đâu đến vậy?
- Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng
- Bà ơi, có bao giờ bà thấy bầu trời giống như một hồ nước úp lộn ngược không?
- Và những áng mây bé tí kia trông giống những chiếc thuyền buồm phải không nào?
- Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương buồm đi về đâu?
- Có lẽ đi dự "hội mây" đó cháu.
- Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?
- Có lẽ để quyết định xem trái đất có cần mưa thêm không?
- Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà nhỉ?

  ***

Bà của Richy thực là một gương mẫu hoàn hảo cho người trưởng thành. Bà không bị mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng của Chúa khi chưa hề bị tì ố. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.

Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề "Born Again" (Tái sinh).

Colson một trong những người bị kết án trong vụ Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến hôm nay. Trong một đoạn sách của mình, Colson đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho họ quan tâm. Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông vẫn còn nhớ mãi những lời tâm sự ấy: "Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt đứa nhỏ này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa".

Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám phá rằng dù ông chưa tự chứng minh được là có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.

Điều này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay. Nếu chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay; "Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó đâu". Có lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu chúng ta.

Nhà viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình Thiên Chúa như sau: "Nếu người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết kiếm tiền".

Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: "Bi kịch của cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống". Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.

Để kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; "Lạy Chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ. Xin giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; "Kẻ nào không tiếp nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó". Xin hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa. Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời". Amen!

Thánh Ca : Diễm Tình Ca


TÔN TRỌNG SỰ SỐNG
Msgr. Edward Peter Browne
L. M. Gioan Trần Khả chuyển dịch

Qua các bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay, đều ám chỉ về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Thiên Chúa, ngay từ nguyên thủy, lúc sáng tạo, do tình yêu thương, đã tạo dựng nên tất cả mọi sự trên thế gian này, nhưng chỉ có một tạo vật đặc biệt là Adong và Evà. Ngài đã ban truyền cho họ một mệnh lệnh là nếu họ tuân giữ lệnh truyền của Ngài thì họ sẽ hưởng hạnh phúc muôn đời. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ hôm nay, Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Do Thái, nói rằng qua lời cầu bầu của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tự bỏ chính mình, trở nên người phàm và chịu đau khổ và chết trên thập gía vì chúng ta để chúng ta có thể có sự sống viên mãn.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào . Không phải chỉ ở trong các bài đọc hôm nay mà trong tất cả Kinh Thánh Thiên Chúa dẫn giải rằng Ngài yêu thương chúng ta. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta một đời sống tươi đẹp. Thiên Chúa đã hứa cho chúng ta bình an và thịnh vượng nếu chúng ta tuân thủ theo ý của Ngài trong mọi sự. Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để chu toàn ý của Thiên Chúa Cha và để dẫn mọi người đến ơn cứu độ. Thánh Gioan nói, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian qúa độ đến nỗi đã ban Con Một của Ngài. Ở nhiều chỗ khác Chúa Giêsu đã nói: Anh em không thể là môn đệ của Ta, trừ khi anh em mang lấy thánh giá và đi theo Ta. Ai làm theo ý của Cha Ta trong mọi sự thì sẽ được sự cứu rỗi đời đời. Những người uốn nắn đời sống của họ theo Thiên Chúa là những người sẽ được hưởng lời hứa Thiên Chúa dành cho họ. Nhưng thật đáng buồn, chúng ta thấy ngày nay một làm sóng thật lớn đang trôi dạt xa ý của Thiên Chúa. Chúng ta thấy nhiều người đẩy Thiên Chúa ra khỏi đời sống của họ và đưa mọi thứ khác vào.

Hôm nay chúng ta cử hành Chúa Nhật Tôn Trọng Sự Sống, và trách nhiệm đầu trên và trên hết là hiểu sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là sự sống của ơn thánh, sự sống mà Thiên Chúa đã ban cho Adam và Evà và họ đã chối bỏ; sự sống Thiên Chúa ban cho dân Israel và họ đã chối bỏ, sự sống của Chúa Giêsu mang đến trần gian. Ngài đã chết trên thập giá để chúng ta có thể có sự sống của Ngài, và người ta lại từ chối. Người ta liên tục chối từ sự sống của Thiên Chúa nơi họ. Nếu họ không tôn trọng sự sống của Thiên Chúa nơi họ, nếu họ không quy lòng trí của họ về Thiên Chúa trước hết, thì làm thế nào họ có thể tôn trọng người khác hay những cái khác?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu Kitô đã nói về việc ly dị. Ngài đã nói là trong thời Mai-sen, nhớ lại Cựu Ước, Sách Xuất Hành, dân chúng đã nổi loạn chống lại Thiên Chúa, rời bỏ Thiên Chúa, và từ đó họ bắt đầu việc ly dị và thờ ngoại thần và tất cả những việc làm khác phật lòng Thiên Chúa. Họ quay lưng đi xa khỏi Thiên Chúa. Nếu anh chị em không thể tôn trọng sự sống của Thiên Chúa nơi anh chị em, thì anh chị em không thể tôn trọng bất cứ sự sống nào khác. Vợ chồng không thể tôn trọng và chung thủy với nhau nếu họ, trước tiên và trên hết không tôn trọng Thiên Chúa. Làm cách nào chúng ta có thể coi thường sự sống của Thiên Chúa và lại coi trọng những người khác được?

Chúng ta thấy đất nước chúng ta ngày càng lạc xa việc thực hành đức tin, người dân của chúng ta trở nên kém bản chất Kitô. Chính quyền của chúng ta dường như cố gắng bao nhiêu có thể để đưa Thiên Chúa ra khỏi đời sống của người dân. Người ta không còn có thể cầu nguyện ở trường học, không còn được phép làm những đòi buộc đơn giản là nhìn nhận Thiên Chúa trong đời sống công, vì đó là điều bị cấm, và kết qủa là dân chúng trôi dạt đi xa khỏi lòng trung tín và tôn trọng sự sống và mỗi ngày họ một xa lìa Thiên Chúa hơn.

Gần đây báo chí có liệt kê một số những quốc gia và tỉ lệ ly dị ở các quốc gia đó. tỉ lệ ly dị ở Mỹ hầu như là năm mươi phần trăm. Phân nửa các cuộc hôn nhân đi đến ly dị. Và nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng giống như thế. Vài quốc gia có tỉ lệ thấp hơn, vài quốc gia khác có tỉ lệ cao hơn, nhưng tỉ lệ ly dị mỗi ngày một tăng. Làm thế nào một người nam hay một người nữ chung thủy với người phối ngẫu của họ nếu họ không thể trung tín với Thiên Chúa? Có nghĩa lý gì để chung thủy ở đời này nếu anh chị em không coi trọng chung thủy đối với sự sống đời sau? Trong xã hội ngày nay chúng ta thấy có khuynh hướng tuyệt đối tôn trọng những người sống. Chúng ta lại có cái văn hóa sự chết, như Đức Thánh Cha nói. Chúng ta có tới bốn ngàn năm trăm vụ phá thai mỗi ngày, ba trăm sáu mươi lăm ngày mỗi năm. Làm thế nào người ta có thể tôn trọng sự sống của một trẻ thơ nếu họ không tôn trọng sự sống nơi chính họ? Nếu họ có thể chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi họ, thì còn có gì khác biệt đối với họ để một con người bị tiêu diệt? Hay cuộc hôn nhân đó bị đổ vỡ hay người này sống trong lối sống buông thả dâm đãng? Chúng ta không thể có trách nhiệm đối với bản thân và với nhau nếu chúng ta không nhận thức được bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa.

Một trong những điều làm tôi thấy khó chịu mỗi Chúa Nhật khi tôi bước qua bãi đậu xe đi vào nhà thờ là những nhãn hiệu dán ở sau xe ủng hộ các ứng cử viên phò phá thai. Chúng ta có một chính quyền, một tổng thống, một guồng máy lãnh đạo với mục đích tiên khởi dường như là phá hủy bao nhiêu thai nhi họ có thể phá. Phá thai không giới hạn, chính phủ bao trả, tiền thuế của anh chị em, và mọi người đều nói chúng ta phải đồng ý tuân theo bởi vì chúng ta có bổn phận tôn trọng quyền lựa chọn của cha mẹ. Đó không phải là một lựa chọn, đó là giết người. Phá thai là giết một mạng sống được Thiên Chúa ban cho và nếu anh chị em đồng ý giết sự sống của Thiên Chúa nơi mình, thì có còn gì khác để nói về những người này khi mà anh chị em đang giết mạng sống của một người khác không? Nếu người ta sẵn lòng phá và bóp méo các gía trị của đời sống, thì tại sao họ lại không? Người ta đã bóp mép các gía trị về giáo huấn của Chúa Kitô.

Ở thời đại của chúng ta, dường như là mỗi ngày một ít đi số người tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Nếu anh chị em không thể tin vào sự hiện diện của Chúa, thì làm sao anh chị em có thể tin vào sự hiện diện của con người. Nếu anh chị em không thể tin vào sự trung tín của Thiên Chúa, thì làm thế nào anh chị em có thể trung tín đối với con người ở đời này? Qua nhiều năm, tôi đã gặp nhiều cặp vợ chồng đến với tôi nói về các vấn đề khó khăn trong hôn nhân. Nó có thể là về tiền bạc, có thể bất cứ vấn đề này hay vấn đề kia, nhưng những người đến với tôi và có sự hiểu biết chân thành và ý thức về Chúa Kitô và về Thiên Chúa trong đời sống của họ thì không bao giờ đi đến ly dị. Chỉ có những người đã bỏ sự sung mãn nơi sự sống Chúa Kitô trong họ thì các vấn đề khác mới bắt đầu mọc ra, tiền bạc, thỏa thích, tự do, mộng ước riêng, tất cả những thứ đó. Khi người ta bỏ mất sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống của họ, thì họ sẽ sẵn lòng và có thể bỏ đi những trách nhiệm khác trong đời sống.

Khi chúng ta suy tư về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta, chúng ta cũng có thể nhận ra những dấu chỉ nơi chúng ta để biết rằng chúng ta đã chối bỏ Thiên Chúa. Nếu anh chị em phò phá thai, nếu anh anh chị em ủng hộ tất cả những điều đáng tiếc khác, thì có thể là anh chị em đã hững hờ với Thiên Chúa; anh chị em đã chối bỏ sự hiện diện của Chúa Kitô trong đời sống và sự viên mãn trong ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Chúng ta phải trước tiên và trên hết mở lòng mình ra đối với tình yêu của Thiên Chúa, sửa lại những điều làm chúng ta lạc xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta, quay trở về với Thiên Chúa, ý thức rằng chúng ta chỉ có thể có đời sống viên mãn nếu chúng ta có Thiên Chúa trong chúng ta và trong linh hồn của chúng ta. Nếu chúng ta có sự sống của Thiên Chúa trong linh hồn mình, chúng ta sẽ có khả năng tôi trọng tất cả mọi sự sống khác.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn. Amen!

Thánh Ca : Cầu Cho Cha Mẹ